Những sai phạm tại các dự án đầu tư công đã gây thất thoát, lãng phí 31.795 tỷ đồng, theo Đoàn giám sát Quốc hội khoá XV, chưa kể tình trạng hàng nghìn dự án đầu tư công chậm tiến độ, đội vốn, có xu hướng tăng dần qua các năm.

metro ben thanh suoi tien
Sau 14 năm, tuyến metro 1 (Bến Thành – Suối Tiên) vẫn chưa hoàn thành dù đội vốn từ 7.387 tỷ đồng lên 43.757 tỷ đồng. Ảnh: Một đoàn tàu thuộc tuyến metro số 1 (Bến Thành – Suối Tiên) được chuyển từ Nhật Bản về Việt Nam hồi năm 2020. (Ảnh: maur.hochiminhcity.gov.vn)

Từ hàng nghìn dự án đầu tư công chậm tiến độ, đội vốn…

Đoàn giám sát Quốc hội khóa XV vừa có báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2021”.

Trong lĩnh vực đầu tư công, đoàn giám sát đánh giá chất lượng chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị dự án còn thấp; khảo sát, lập và phê duyệt dự án không hợp lý; xác định dự toán, tổng mức đầu tư còn nhiều sai sót, thiếu chính xác…

Những vấn đề trên khiến hàng nghìn dự án phải điều chỉnh quyết định đầu tư, trong đó nhiều dự án phải điều chỉnh nhiều lần, tổng mức đầu tư điều chỉnh cao gấp nhiều lần so với tổng mức đầu tư phê duyệt ban đầu. Nội dung điều chỉnh chủ yếu là về vốn, tiến độ đầu tư, quy mô; tổng mức đầu tư,…

Ngoài ra, hàng nghìn dự án đầu tư công đang chậm tiến độ, có xu hướng tăng dần qua các năm. Số dự án chậm tiến độ trong năm 2016 là 1.448 dự án, năm 2017 là 1.609 dự án, năm 2018 là 1.778 dự án, năm 2019 là 1.878 dự án, năm 2020 là 1.867 dự án, năm 2021 là 1.962 dự án, theo tổng hợp từ báo cáo không đầy đủ của các bộ, ngành, địa phương giai đoạn 2016-2021.

Trong đó, hầu hết các dự án quan trọng quốc gia, các dự án lớn, trọng điểm đều chậm tiến độ, điển hình là: Dự án tuyến đường sắt thí điểm Thành phố, đoạn Nhổn-ga Hà Nội; Tuyến đường sắt đô thị số 2 đoạn Nam Thăng Long-Trần Hưng Đạo; Tuyến đường sắt số 1: Bến Thành – Suối Tiên; Tuyến đường sắt số 2: Bến Thành – Tham Lương,…

Nhiều dự án triển khai kéo dài, đầu tư không dứt điểm, kém hiệu quả. Điển hình như tỉnh Bình Dương có 55 dự án chậm tiến độ; 15 công trình, dự án phải tạm dừng sau khi được cấp thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư; 225 lượt dự án được các cơ quan chức năng thực hiện kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Trong đó, có 109 lượt dự án phát hiện có sai phạm với tổng số tiền thực hiện không phù hợp được các cơ quan chức năng kiến nghị xử lý là trên 442 tỷ đồng.

Thời hạn thực hiện các dự án gấp nhiều lần quy định. Tỉnh Thanh Hóa có dự án nhóm B kéo dài 13 năm (Dự án đê, kè biển xã Hải Châu, tỉnh Thanh Hóa); Tỉnh Long An có 17 dự án nhóm B bố trí vốn kéo dài từ 6 đến 17 năm, 15 dự án nhóm C bố trí vốn kéo dài từ 4 đến 9 năm (khoản 2 Điều 52 Luật Đầu tư công 2019 quy định thời gian bố trí vốn thực hiện dự án nhóm A không quá 6 năm, nhóm B không quá 4 năm, nhóm C không quá 3 năm – chú thích).

Lý do chậm tiến độ chủ yếu bởi công tác giải phóng mặt bằng, bố trí vốn không kịp thời, do năng lực của chủ đầu tư, ban quản lý dự án và các nhà thầu… Theo đoàn giám sát, đây là vấn đề đã kéo dài nhiều năm, chưa được khắc phục đáng kể, gây lãng phí lớn trong sử dụng vốn đầu tư công.

… đến hàng nghìn dự án thất thoát, lãng phí do sai phạm

Trong lĩnh vực đấu thầu, quản lý, sử dụng vốn, tổ chức triển khai thực hiện dự án, theo báo cáo của Đoàn giám sát, hàng năm đều ghi nhận hàng trăm dự án vi phạm quy định về thủ tục đầu tư, gây thất thoát, lãng phí, giảm hiệu quả đầu tư. Cụ thể, năm 2016 có 590 dự án, năm 2017 có 840 dự án, năm 2018 có 422 dự án, năm 2019 có 125 dự án, năm 2020 có 923 dự án, năm 2021 có 185 dự án.

Có rất nhiều dự án đầu tư công có sai phạm, phải xử lý hình sự trong số 1.086 trường hợp đã đưa ra xét xử gây thất thoát, lãng phí khoảng 31.795 tỷ đồng – Đoàn giám sát trích theo Báo cáo số 1024/BC-BCA-CSKT ngày 27/6/2022 của Bộ Công an.

Lý giải nguyên nhân, theo Đoàn giám sát, các dự án có thất thoát, lãng phí chủ yếu là các chi phí không hợp lý, được phát hiện trong giai đoạn thanh, quyết toán, kiểm toán. Một số địa phương có số dự án phát hiện có thất thoát, lãng phí nhiều, gồm Bắc Giang có 196 dự án trong năm 2018 và 864 dự án trong năm 2020; Thanh Hóa có 52 dự án trong năm 2019, 19 dự án trong năm 2020, 90 dự án trong năm 2021; Phú Thọ có 111 dự án trong năm 2018; Quảng Ngãi có 58 dự án trong năm 2018; Lạng Sơn có 48 dự án trong năm 2021; Hà Tĩnh có 34 dự án trong năm 2020; Sơn La có 33 dự án trong năm 2019; Nghệ An có 20 dự án trong năm 2019…

Ngoài ra, việc giải ngân nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài cũng được đánh giá là “triển khai rất chậm, thời gian dự án kéo dài, phải gia hạn thực hiện dẫn tới không hoàn thành, đưa dự án vào khai thác đúng thời hạn dự kiến, giảm hiệu quả sử dụng vốn vay”.

Cụ thể, tính đến năm 2021, tỷ lệ giải ngân lũy kế đạt khoảng hơn 76% tổng vốn ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài đã ký kết. Còn theo kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020, giải ngân vốn vay ODA và vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài chỉ đạt 46%.

Đáng lưu ý, tỷ lệ giải ngân với các khoản vay từ Nhóm sáu ngân hàng phát triển đã giảm từ mức 23,1% năm 2014 xuống còn 11,2% năm 2018, thấp hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu của Nhóm sáu ngân hàng này.

“Việc giải ngân chậm đã dẫn đến chậm trễ trong thực hiện các mục tiêu phát triển, không chỉ làm phát sinh chi phí, ảnh hưởng tới thực hiện dự án, mà có thể dẫn tới tranh chấp hợp đồng với nhà thầu, ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam cũng như quyết định đầu tư của các nhà tài trợ”, Đoàn giám sát khuyến cáo.

Nguyễn Minh