Tính đến năm 2018, cả nước có 818 dự án thủy điện với tổng công suất lắp đặt 23.182MW, mục tiêu đến năm 2030 sẽ tăng công suất lắp đặt các nhà máy thủy điện lên khoảng 25.400MW.

thuy dien quang nam
Đập thủy điện Za Hưng xây dựng trên sông A Vương (xã Za Hung, huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam), tháng 9/2017. (Ảnh: Lưu Tâm)

Bộ Công thương vừa có báo cáo theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ về công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý vận hành an toàn đập, hồ chứa thủy điện trên toàn quốc.

Theo quy hoạch đã được phê duyệt, tính đến năm 2018, cả nước có 818 dự án thủy điện với tổng công suất lắp đặt 23.182MW. Trong đó, 385 dự án đã đưa vào khai thác sử dụng, có tổng công suất lắp đặt 18.564MW; 143 dự án đang xây dựng với tổng công suất lắp đặt 1.848MW; 290 dự án đang nghiên cứu đầu tư với tổng công suất lắp đặt 2.770MW.

Xét chung trong hệ thống điện quốc gia năm 2017, các dự án thủy điện đang vận hành chiếm tỷ trọng khoảng 40% về công suất lắp đặt và khoảng 42,87% về điện năng. Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 18/3/2016, công suất lắp đặt các nhà máy thủy điện đến năm 2030 sẽ đạt khoảng 25.400MW, tăng 9,5% so với hiện tại.

Bộ Công thương cho biết trong 385 công trình thủy điện đang vận hành, có 40 công trình không có hồ chứa hoặc sử dụng chung nước của hồ thủy lợi để phát điện. Tại 345 công trình thủy điện còn lại, việc vận hành hồ chứa và quản lý an toàn đập thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương và UBND các tỉnh.

338 trong tổng số 345 hồ chứa có quy trình vận hành được thẩm định, phê duyệt. Hiện các hồ chứa thủy điện có tổng dung tích khoảng 56 tỷ m3, chiếm 86% tổng dung tích của các hồ chứa trong cả nước.

Báo cáo cũng cho biết một số bất cập trong việc về việc quy hoạch, xây dựng, quản lý vận hành an toàn đập, hồ chứa thủy điện trên toàn quốc. Bộ cho biết Luật Thủy lợi hiện hành không có quy định về vận hành và quản lý an toàn đập thủy điện, tạo ra khoảng trống trong công tác vận hành hồ, quản lý an toàn đập các hồ thủy điện; một số quy định về xây dựng phương án ứng phó thiên tai, phương án phòng chống thiên tai chưa rõ ràng và chồng chéo.

Ngoài ra, Bộ cho biết có sự sai khác khá lớn giữa bản tin dự báo khí tượng thủy văn với thực tế, làm các chủ đập thủy điện gặp khó khăn trong việc vận hành hồ chứa thủy điện an toàn, hiệu quả.

Về hành lang thoát lũ, hiện cũng chưa có quy định về xác định và quản lý hành lang thoát lũ nên nhiều hộ dân đã xây nhà, công trình và sản xuất nông nghiệp trong hành lang thoát lũ, có những công trình xả lũ chỉ đáp ứng khoảng 30-50% lưu lượng xả thiết kế nên đã gây mất an toàn cho vùng hạ du (Đa Nhim, Hòa Bình…).

Theo đó, Bộ Công thương kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hoàn thiện về quy phạm pháp lý  liên quan đến vận hành hồ chứa và quản lý an toàn đập.

Đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo UBND các tỉnh rà soát vùng hạ du các hồ chứa thủy điện và có giải pháp thuộc phạm vi trách nhiệm của địa phương để bảo đảm an toàn khi các hồ chứa xả lũ, tăng năng lực và thiết bị cho việc tìm kiếm cứu nạn. Đề nghị UBND các tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng của địa phương phối hợp các chủ đập thủy điện nâng cao năng lực ứng xử với lũ, lụt của người dân, xây dựng bản đồ ngập lụt, phòng, chống lũ lụt bằng cách cắt giảm lũ của các công trình thủy lợi, thủy điện trên lưu vực, bố trí dân cư, hạ tầng kỹ thuật, sản xuất nông nghiệp… phía hạ du.

Bộ Công Thương cũng đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng lộ trình nâng cao chất lượng, bảo đảm chất lượng các bản tin khí tượng thủy văn sát với thực tế.

Về hành lang thoát lũ, Bộ đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao UBND các tỉnh phối hợp với các chủ đập rà soát tổng thể vùng hạ du đập, có biện pháp xử lý, quản lý chặt chẽ hành lang thoát lũ để bảo đảm an toàn cho vùng hạ du khi các hồ chứa thủy điện vận hành xả lũ.

Nguyễn Quân

Xem thêm: