Tạm biệt chủ nghĩa đa phương

Một cột trụ khác trong chiến lược đối ngoại của ông Trump là Mỹ ưa chuộng hợp tác với các nước khác trên cơ sở song phương hơn là đa phương, bất cứ khi nào có thể. Theo đuổi mục tiêu này, chính quyền Trump đã rút khỏi Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình dương TPP, thỏa thuận hạt nhân Iran và Hiệp ước Paris về biến đổi khí hậu. Mỹ cũng loan báo sẽ cắt giảm 40% khoản tiền đóng góp cho Liên Hiệp Quốc, buộc Hội đồng Bảo an phải cắt 600 triệu USD ngân sách gìn giữ hòa bình. Ngoài ra, chính quyền Trump cũng loan báo ý định rút khỏi UNESCO, Hội đồng Nhân quyền LHQ và từ chối tham dự các cuộc nói chuyện đa phương về nhập cư. Ông Trump cũng dọa sẽ xóa bỏ hiệp ước thương mại tự do Bắc Mỹ (Nafta) và lập các thỏa thuận song phương với Mexico và Canada – điều mà ông cho là dễ thực hiện hơn các thỏa thuận đa phương.

Embed from Getty Images

Trong con mắt của Trump, chủ nghĩa đa phương “làm giảm khả năng kiểm soát các vấn đề của chính chúng ta”. Thậm chí những người bảo vệ trật tự thế giới tự do cũng phải thừa nhận ông đúng về điểm này, bởi đó chính là điều mà một trật tự dựa trên luật lệ được thiết để đạt được: đặt giới hạn lên khả năng thoái lui và sử dụng quyền lực một cách thất thường lên các mối quan hệ quốc tế. Trên thực tế, những ai mà tung hô trật tự này tìm kiếm không gì ngoài một sự thay đổi mang tính cách mạng của nền chính trị thế giới, họ hy vọng sẽ thay thế hệ thống quốc tế vô chính phủ mạnh được yếu thua bằng một nền tảng vận hành bằng pháp luật.

Với những người ủng hộ thể chế này, chiêu thuật được sử dụng luôn là thuyết phục các nước yếu và các quốc gia hạng hai – tức là toàn bộ thế giới trừ nước Mỹ – rằng các thể chế quốc tế và cam kết đa phương sẽ giới hạn tự do hành động của kẻ bá quyền (Mỹ). Vì để trật tự quốc tế này có hiệu quả, nó phải có cơ chế tự trị và thi hành các quy định của mình, dù đi ngược lại mong muốn của kẻ bá quyền. Nói cách khác, chẳng có lý do nào để các quốc gia này gia nhập vào các tổ chức quốc tế nếu họ tin rằng mình không thu được lợi thế nào đó đối với những nước mạnh hơn. Tuy nhiên điều này chẳng có ý nghĩa gì với Trump khi mà ông tuyên bố quay lưng với họ. Điểm yếu của trật tự thế giới này là hiển nhiên: kể từ khi Thế chiến II kết thúc, các tổ chức quốc và chuẩn mực quốc tế đã phụ thuộc quá nhiều và Mỹ và do đó không thể được sử dụng để kiềm chế Mỹ. Những trường hợp mà Mỹ bị kiềm chế là vì họ tự nguyện làm như vậy. Giới lãnh đạo và các chuyên gia đối ngoại của Mỹ đã tung hô chủ nghĩa đa phương và toàn cầu hóa bất chấp việc những thể chế này ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia ra sao.

Không còn bữa trưa miễn phí

Mảnh ghép cuối cùng trong chính sách đối ngoại của Trump là yêu cầu các đồng minh của Mỹ phải trả những chi phí tương xứng cho việc bảo vệ bản thân họ. Chính NATO công nhận rằng Mỹ chi trả tới 73% chi phí phòng vệ của cả liên minh này – một số lượng quá lớn cho một tổ chức có 29 thành viên và lại đặt trọng tâm vào an ninh Châu Âu chứ không phải Mỹ. Tuy thế nhiều tờ báo lớn ở Mỹ vẫn công kích Trump khi ông gọi các nước đồng minh EU là những kẻ “ăn chùa”. Nhưng họ lại quên rằng Obama cũng từng làm như vậy, chỉ là mức độ nhẹ nhàng hơn. “Những kẻ ăn chùa làm tôi bực mình”, Obama phàn nàn vào năm 2016 trong một bài phỏng vấn với tờ Atlantic. Danh sách các nước “ăn chùa” của ông ta có cả nước Anh – một nước ghét Trump và yêu Obama nồng nhiệt – tới mức ông cảnh báo rằng Anh Quốc sẽ không có thể tuyên bố mình có mối quan hệ đặc biệt với Mỹ trừ khi họ chi ít nhất 2%GDP cho quốc phòng.

Trong nhiều thập kỷ qua, các tổng thống Mỹ cũng phàn nàn về các nước “ăn chùa”, nhưng ít ai làm được gì trên thực tế. Trong Chiến tranh lạnh, khi mà Mỹ và đồng minh cùng phải đối mặt với mối đe dọa Liên bang Xô viết thì vấn đề này cần phải được phép duy trì. Nhưng nay, con rồng đã bị trảm – từ rất rất nhiều năm trước rồi – và đến lúc mà chính phủ Mỹ đang nợ ngập đầu và phải cân nhắc đến các khoản cắt giảm chi tiêu công khổng lồ, thì không lý gì Mỹ lại phải tiếp tục chi tiền bao bọc cho vấn đề an toàn của châu Âu. Như nhà nghiên cứu chính trị khoa học Barry Posen đã viết trên tạp chí Chính sách Ngoại giao: “Đây là phúc lợi nhà giàu”. Việc ông Trump lên án NATO về chi tiêu quốc phòng đã có tác dụng. Ngân sách quốc phòng của các đồng minh Châu Âu đã lên đến mức cao nhất kể từ năm 2010.

Nhưng theo “giới võ đoán”, ông Trump không chỉ đòi các nước khác chia sẻ gánh nặng tài chính với Mỹ mà ông ta còn âm mưu tiêu diệt NATO. Trong một bài viết đăng trên New York Times hồi tháng 6, tác giả David Leonhardt viết: “Nếu có một Tổng thống Mỹ vạch ra một kế hoạch bí mật, chi tiết để phá vỡ liên minh Đại Tây Dương, thì kế hoạch đó sẽ giống như đúc với những biểu hiện của ông Trump”. Nhưng Leonhardt dường như quên rằng kẻ thù lớn nhất của một liên minh là chiến thắng. Khi phương Tây chiến thắng Chiến tranh Lạnh, NATO đã mất đi lý do để tồn tại. Trong một thế giới ngày càng nhiều cực, các liên minh càng trở nên ít cố định hơn: bạn hữu hôm nay có thể thành kẻ thù của ngày mai (hay ít nhất là đối thủ cạnh tranh) và ngược lại. Ông Trump thừa nhận điều này. Ông hành động dựa trên nguyên lý chính trị thực dụng mà cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger từng trình bày: “nước Mỹ không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh cửu, chỉ có lợi ích vĩnh viễn”.

Bản năng thực dụng của ông Trump đã được thể hiện mạnh nhất trong cách ông xử lý vấn đề nước Nga. Giống như mọi tổng thống trước ông, Trump đã gặp mặt lãnh đạo viện Kremlin nhằm tìm cách hợp tác trong một loạt các vấn đề an ninh (đặc biệt là Iran và Syria), và ở mức sống còn nhất là nhằm tránh một cuộc chiến tranh giữa 2 cường quốc hạt nhân. Những người la hét lên rằng Nga là kẻ thù không đội trời chung của Mỹ và Trump là con rối của Putin chính là những người đã khiến Mỹ sai lầm nhất trong chính sách ngoại giao một phần tư thế kỷ qua.

Mấu chốt là ông Trump không phải là nguyên nhân chủ yếu kiến NATO tan rã mà là cấu trúc của tổ chức quốc tế này không còn phù hợp. Quả thực, với ông Obama, tình trạng của NATO cũng không khá hơn. Giới chóp bu toàn cầu hóa cũng tỏ ra bực bội khi mà Obama nói về chiến lược đối ngoại tối giản của mình. Trong Chiến tranh Lạnh, theo lời của nhà khoa học chính trị G. John Ikenberry, “nước Mỹ cần đồng minh và đồng minh cần nước Mỹ”. Điều này đã thay đổi với sự kết thúc của mối họa chung Liên bang Xô viết. Hoa Kỳ trở nên ít phụ thuộc hơn trong chính sách ngoại giao, nhưng các đồng minh của họ cũng vậy.

Các đồng minh của Mỹ không còn một nhu cầu lớn như trước phải lệ thuộc vào một “đàn anh” siêu cường bảo vệ, do đó Washington có ít đòn bẩy ngoại giao hơn so với trước. Năm 1993, nhà lý thuyết học về quan hệ quốc tế theo trường phái thực dụng Kenneth Waltz đã có một quan sát thông thái: “Liên bang Xô viết đã tạo ra NATO, và cái chết của Liên Xô đã giải phóng Châu Âu, Đông cũng như Tây. Nhưng tự do phải có tự lực”. Viết về các nước Châu Âu, Waltz kết luận “trong một tương lai không xa lắm, họ sẽ phải học cách tự chăm lo cho bản thân mình hoặc là chịu hậu quả”. Một phần tư thập kỷ đã qua, cái thời điểm tương lai “không xa lắm” ấy cuối cùng đã tới. Ông Trump không tạo ra thực tế đó, đơn giản là ông dám nhìn thẳng vào nó.

Đó là vấn đề cấu trúc

Công bằng mà nói, không phải chuyện gì cũng tốt dưới chính quyền Trump. Sau khi tuyên bố nhiệm vụ tái thiết quốc gia và gọi cuộc chiến ở Afghanistan là “một sự lãng phí hoàn toàn”, tổng thống đã bị thuyết phục bởi những cố vấn cấp cao quanh ông và từ bỏ kế hoạch rút hết lính Mỹ khỏi quốc gia Hồi giáo Trung Đông này. Họ thuyết phục ông rằng một sự thiếu vắng hỏa lực Mỹ vội vã sẽ tạo ra khoảng trống cho IS hay Al Qaeda tới lấp vào, và thế là Trump chấp nhận duy trì một lượng nhỏ quân đội Hoa Kỳ để đánh lùi phiến quân nổi dậy Taliban.

“Bản năng đầu tiên của tôi mách bảo tôi rút quân ngay, và trong quá khứ, tôi thích nghe theo bản năng của mình”, ông Trump phát biểu ngày ông tuyên bố chiến lược với Afghanistan. “Nhưng cả đời mình, tôi đã nghe người ta nói rằng các quyết định sẽ khác biệt rất nhiều khi bạn ngồi sau chiếc bàn ở Phòng Bầu Dục”.

Nhưng ông Trump nên nghe theo bản năng của mình. Ý tưởng rằng một vài ngàn lính Mỹ có thể đạt được điều mà 100.000 trước đó thất bại: phá vỡ thế bế tắc trong cuộc chiến lâu nhất lịch sử Mỹ, là đáng cười và ngây ngô. Nhưng ông Trump đã nhận ra trật tự thế giới tự do hiện tại đang lâm bệnh. Cơn bệnh này, như ký giả Martin Wolf đã chỉ ra, là một hệ quả của, ở mức độ toàn cầu, “sự suy giảm  quyền lực tương đối của phương Tây với tư cách là một cộng đồng an ninh sau sự kết thúc của chiến tranh lạnh, cùng với sự suy giảm của ảnh hưởng kinh tế của họ, đặc biệt là trong mối quan hệ với Trung Quốc”. Tại mức quốc gia, vấn đề nảy sinh từ những người dân bình thường ở rất nhiều các nước giàu không cảm thấy họ được lợi gì, nếu không nói là phải chịu thiệt, từ cái gọi là toàn cầu hóa.

“Thay vào đó, nó sinh ra một cảm giác mất mát trong các cơ hội, thu nhập và sự tôn trọng”.

Một cách hoàn toàn chính đáng, rất nhiều người Mỹ cảm thấy toàn cầu hóa, bằng việc mang lại hàng hóa giá rẻ vào trong nước và mang công việc của họ tới các nước nhân công giá rẻ, đã hủy hoại ngành công nghiệp của Mỹ, gia tăng thất nghiệp và khiến mức lương của họ giảm đi nhiều. Không có gì ngạc nhiên khi những phát ngôn của ông Trump về thương mại bất công nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ cử tri Mỹ, đặc biệt là những người sống ở các bang công nghiệp Trung Tây. Nhưng giới tinh anh ngoại giao, bị mù mắt bởi sự thù ghét ông Trump, đã không nhìn thấy được một bức tranh lớn hơn về các vấn đề trong các cấu trúc toàn cầu hóa đã đẩy Trump tới chiếc ghế quyền lực.

Để hiểu được hiệu quả của các kết cấu toàn cầu này, ta phải quay về thời điểm chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Với tư cách là siêu cường duy nhất trên thế giới, liên hệ của Hoa Kỳ với thế giới vẫn rất chặt chẽ, tuy nhiên mục đích của các mối liên hệ này đã thay đổi. Trước đó, Hoa Kỳ hành động vì phòng thủ và mong muốn duy trì nguyên trạng để tránh tình trạng leo thang thành chiến tranh. Nhưng sau đó, Hoa Kỳ lại ôm giữ thứ chủ nghĩa xét lại dưới cái vỏ bọc của tự do. Với tư cách là một bá chủ không có đối thủ, nước Mỹ hăm hở chi tiền bạc và quân sự đi đúc khuôn thế giới theo hình mẫu của mình. Washington không chỉ tự coi mình là hiện thân của các giá trị dân chủ, nhân quyền, và công lý mà nó còn tích cực quảng bá các giá trị này tới những quốc gia khác.

Chính sách này đã đánh dấu sự chấm dứt của chủ nghĩa thực dụng thời Chiến tranh Lạnh, nhưng lại mở ra thời kỳ đối ngoại thập tự chinh kiểu Mỹ. Trong giấc mơ của giới tinh hoa ngoại giao nước Mỹ, tất cả các quốc gia, bao gồm cả các nước độc tài như Trung Quốc và Nga, sẽ copy hệ thống chính trị và cách vận hành của nước Mỹ, từ đó trở thành một mắt xích trung thành trong trật tự thế giới mới do Mỹ dẫn đầu. Tuy nhiên, cuộc Đại suy thoái xảy ra, sau đó là sự nổi lên của Trung Quốc và tái khởi của Nga, đã phủ bóng đen nghi ngờ nên quyền lực tương đối của Mỹ. Kết quả là thời kỳ thế giới đơn cực, nếu không hoàn toàn chấm dứt, thì cũng đã đi tới những ngày cuối cùng. Bị suy giảm sức mạnh trong bối cảnh không có các mối đe dọa tới lãnh thổ khiến các nước cân nhắc lại các ràng buộc với bên ngoài và chú trọng vào các vấn đề bên trong hơn. Vì thế, không ngạc nhiên khi mà có rất nhiều người Mỹ cuối cùng đã bắt đầu đặt câu hỏi tại sao Mỹ lại phải giữ vai trò cảnh sát thế giới hao tiền tốn của và bỏ phiếu cho một người thề sẽ đặt lợi ích của họ trước tiên. Trong hoàn cảnh kỷ nguyên nước Mỹ bá chủ gần như kết thúc, Washington phải theo đuổi một sách lược vĩ mô mới để đối phó tình hình này. Chủ nghĩa thực dụng của ông Trump có thể chính là một giải pháp cho điều đó.

Tác giả: Randall Schweller, giáo sư Khoa học Chính trị và Giám đốc Chương trình nghiên cứu Chính sách Đối ngoại thực dụng tại Đại học bang Ohio, Hoa Kỳ

Trọng Đức biên dịch

Xem thêm: