Lao động tạm nghỉ việc, ngừng việc do tác động trực tiếp của dịch bệnh viêm phổi Vũ Hán (COVID-19) vẫn được nhận lương, theo Bộ LĐ-TB-XH. Mức lương do người lao động và doanh nghiệp thỏa thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.

COVID-19
Lao động được nhận mức lương tối thiểu khi bị ngừng việc do dịch COVID-19. Trong trường hợp xấu hơn, chủ lao động và người lao động thỏa thuận phương án làm việc. (Ảnh minh họa: Vietnam Colors/Shutterstock)

Ngày 26/3, Bộ LĐ-TB&XH ra văn bản gửi các doanh nghiệp, các đơn vị trực thuộc hướng dẫn trả việc trả lương, tạm hoãn hợp đồng lao động… đối với người lao động (NLĐ) bị ngừng việc do dịch viêm phổi Vũ Hán.

Đối với NLĐ phải ngừng việc do tác động trực tiếp của dịch COVID-19 (như lao động là người nước ngoài trong thời gian chưa được quay trở lại doanh nghiệp, người lao động phải ngừng việc trong thời gian thực hiện cách ly…), tiền lương của NLĐ trong thời gian ngừng việc do hai bên thỏa thuận nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định, theo Khoản 3 Điều 98 Bộ luật Lao động.

Hiện mức lương tối thiểu vùng áp dụng từ ngày 1/1/2020 chia theo 4 vùng. Vùng 1 là 4,42 triệu/tháng; vùng 2 là 3,92 triệu/tháng; vùng 3 là 3,43 triệu; vùng 4 là 3,07 triệu đồng/tháng.

Đối với doanh nghiệp gặp khó khăn về nguyên vật liệu, thị trường dẫn tới không bố trí đủ việc làm, người sử dụng lao động có thể tạm thời chuyển NLĐ làm công việc khác so với hợp đồng lao động theo quy định tại điều 31, Bộ luật Lao động.

Nếu thời gian ngừng việc kéo dài ảnh hưởng đến khả năng chi trả của doanh nghiệp, người sử dụng lao động và NLĐ có thể thỏa thuận tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 32, Bộ luật Lao động.

Nếu doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, dẫn tới giảm chỗ làm việc thì mỗi bên đều có quyền hủy bỏ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước khi hết thời hạn nhưng phải thông báo bằng văn bản và phải được bên kia đồng ý (Điều 38) hoặc chủ lao động sắp xếp phương án sử dụng lao động, và thông báo công khai cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được thông qua (Điều 44 Bộ luật Lao động).

Đối với những trường hợp phát sinh khác, Bộ LĐ-TB&XH đề nghị các sở căn cứ từng nội dung và trường hợp cụ thể để hướng dẫn giải quyết theo đúng quy định của pháp luật hoặc báo cáo về Bộ để được hướng dẫn, xử lý kịp thời.

Nguyễn Quân