Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 6,6 – 6,8% trong năm 2019.

Ngày 22/10, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trình bày báo cáo tình hình kinh tế – xã hội năm 2018 và kế hoạch năm 2019 tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 14.

thu tuong nguyen xuan phuc
Thủ tướng báo cáo tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 14. (Ảnh: VGP/Nhật Bắc)

Theo báo cáo của Thủ tướng, tình hình đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong 3 năm 2016-2018 phát triển đúng hướng; quy mô nền kinh tế gấp 1,3 lần, GDP bình quân đầu người đạt 2.540 USD, tăng 440 USD so với năm 2015.

Báo cáo cho thấy tăng trưởng GDP 9 tháng đạt 6,98%, ước cả năm vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 6,7%. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm ước tính dưới 4%, là năm thứ 3 liên tiếp kiểm soát dưới 4%.

Bên cạnh đó, tín dụng 9 tháng tăng 10,4%, dự tính cả năm tăng dưới 17%, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ tín dụng bất động sản, chứng khoán. Tỷ giá, thị trường ngoại tệ được kiểm soát tốt, dự trữ ngoại hối nhà nước đạt kỷ lục trên 60 tỷ USD, báo cáo của Thủ tướng cho hay.

Tuy nhiên, Thủ tướng cho rằng vẫn còn những rủi ro tiềm ẩn đối với nền kinh tế trong nước, đặc biệt là “sức ép lạm phát còn lớn” do tác động của nhiều yếu tố như: biến động tỷ giá, lãi suất, xu hướng tăng giá dầu thô trên thị trường quốc tế và yêu cầu thực hiện lộ trình giá thị trường đối với điện, dịch vụ giáo dục, y tế…

Tính tự chủ của nền kinh tế từng bước được nâng lên nhưng chưa đáp ứng yêu cầu; khả năng chống chịu trước những biến động bên ngoài còn hạn chế. Giải ngân vốn đầu tư công, cổ phần hóa DNNN, thoái vốn ở nhiều bộ ngành, địa phương chậm.

Sản xuất kinh doanh nhiều lĩnh vực còn khó khăn. Sự gắn kết với khu vực FDI và năng lực, hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế.

Một số công trình, dự án chậm tiến độ, chất lượng kém. Còn những bất cập trong cơ chế, chính sách; điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực còn gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.

“Tuy nhiều tổ chức quốc tế nâng hạng của nước ta trên nhiều lĩnh vực, nhất là môi trường kinh doanh, nhưng Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018 của Việt Nam giảm 3 bậc so với năm 2017”, Thủ tướng nói.

Bên cạnh đó, Việt Nam tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, FTA với EU… với yêu cầu cao hơn và phải thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế (cả về thuế quan, mở cửa thị trường, sở hữu trí tuệ…) mà không còn được hưởng các ưu đãi đặc thù cho giai đoạn chuyển đổi như trước.

“Đây là áp lực lớn mà các cấp, các ngành và khu vực kinh tế trong nước cần vượt qua để phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng, hiệu quả”, theo Thủ tướng.

Kế hoạch năm 2019, Thủ tướng đặt mục tiêu tăng trưởng GDP đạt từ 6,6 – 6,8%; tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 7 – 8%; tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 33 – 34% GDP.

Tú Mỹ

Xem thêm: