Bộ Công thương cho biết đến năm 2018-2019 hầu như không còn dự phòng về điện và sang giai đoạn 2021-2025 sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cấp điện.

thieu dien
Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng 3 do TKV làm chủ đầu tư chậm tiến độ khoảng 3 năm. Trong ảnh, nhà máy nhiệt điện Hải Phòng 1&2 (huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng). (Ảnh: npcetc.vn)

Bộ Công thương vừa công bố báo cáo tình hình thực hiện các dự án điện trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh.

Báo cáo cho hay, Quy hoạch điện VII điều chỉnh giai đoạn 2016 – 2030 có tổng cộng 116 dự án nguồn điện đưa vào vận hành, chưa bao gồm các nguồn năng lượng tái tạo chưa ghi rõ tên hoặc chưa lập dự án. Trong đó, có 43 dự án thủy điện, 57 dự án nhiệt điện và 11 dự án năng lượng tái tạo, 3 dự án thủy điện tích năng và 2 dự án điện hạt nhân.

Theo quy hoạch, đến năm 2020, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 60.000 MW; trong giai đoạn 2016 – 2020 sẽ đưa vào vận hành 21.651 MW, trong đó tổng công suất của các dự án nhiệt điện là 13.845 MW (chiếm 63,95%), thủy điện là 4.084 MW (16,86%), năng lượng tái tạo 3.722 MW (17,19%).

Giai đoạn đến năm 2025, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 96.500 MW và đưa vào vận hành 38.010 MW; trong đó tổng công suất của các dự án nhiệt điện là 29.365 MW (chiếm 77,3%), thủy điện là 2.355 MW (6,2%), năng lượng tái tạo 6.290 MW (16,5%).

Giai đoạn đến năm 2030, tổng công suất là 129.500 MW, đưa vào vận hành 36.192 MW; trong đó tổng công suất của các dự án nhiệt điện là 14.350 MW (chiếm 39,6%), thủy điện là 2.052 MW (5,7%), năng lượng tái tạo 15.190 MW (42%), điện hạt nhân 4.600 MW (12,7%).

Quy hoạch điện VII điều chỉnh dự báo sản lượng điện thương phẩm đến năm 2020 theo các phương án cơ sở là 235 tỷ kWh, phương án cao là 245 tỷ kWh, với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm bình quân tương ứng là 10,34%/năm và 11,26%/năm.

Theo Bộ Công thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã đảm bảo cung ứng điện với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm bình quân giai đoạn 2016-2018 là 10,3%/năm.

Từ năm 2021 sẽ bắt đầu thiếu điện

Theo báo cáo của Bộ Công thương, tổng công suất các nguồn điện có khả năng đưa vào vận hành cả giai đoạn 2016-2030 dự kiến khoảng 80.500 MW, thấp hơn so với Quy hoạch VII điều chỉnh là hơn 15.200 MW, trong đó chủ yếu thiếu hụt trong các năm từ 2018 -2022. Nhiều dự án giai đoạn này bị chậm sang giai đoạn 2026 – 2030 và hầu hết là dự án nhiệt điiện tại miền Nam.

Điều này “dẫn đến tình trạng hệ thống điện từ có dự phòng về nguồn điện 20-30% trong những năm 2015-2016 thì đến 2018-2019 hầu như không còn dự phòng và sang giai đoạn 2021-2025 xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cấp điện” – theo nội dung báo cáo.

Theo dự báo, điện tại miền Nam sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt với mức thiếu hụt tăng từ khoảng 3,7 tỷ kWh (năm 2021) lên gần 10 tỷ kWh (năm 2022), cao nhất là khoảng 12 tỷ kWh (năm 2023); sau đó giảm dần xuống 7 tỷ kWh (năm 2024) và 3,5 tỷ kWh (năm 2025).

Nhiều dự án chậm tiến độ

Theo Bộ Công thương, nguyên nhân chính dẫn tới việc thiếu điện tại miền Nam tăng cao hơn so với tính toán trước đây là do tiến độ các dự án khí Lô B, Cá Voi Xanh đều bị chậm so với kế hoạch từ 9 tháng đến 1 năm; các dự án Nhiệt điện Kiên Giang 1&2 không đáp ứng tiến độ hoàn thành trong giai đoạn 2021-2025, thậm chí lùi sau năm 2030; Dự án Ô Môn III lùi tiến độ đến năm 2025.

Bộ Công thương lưu ý, trong trường hợp dự án điện Long Phú 1 không đáp ứng tiến độ hoàn thành năm 2023, tình trạng thiếu điện tại miền Nam trong các năm 2024-2025 sẽ trầm trọng hơn.

Các dự án nhiệt điện Thái Bình II, Long Phú 1, Sông Hậu 1 đến nay đã chậm tiến độ 2 năm, các dự án nguồn điện đầu tư theo hình thức BOT, những dự án đang trong quá trình đàm phán như Sơn Mỹ 1, Sông Hậu 3, Long Phú 2, Nam Định 1, Quảng Trị 1… còn tiềm ẩn rủi ro lớn về tiến độ; nhiều dự án lớn chưa xác định được chủ đầu tư như Long Phú 3, Quỳnh Lập 2…

Trong 62 dự án có công suất trên 200 MW đang thực hiện thì 15 dự án đạt tiến độ, còn lại 47 dự án chậm tiến độ hoặc chưa xác định tiến độ so với tiến độ nêu trong Quy hoạch VII điều chỉnh.

Về các dự án do tập đoàn nhà nước là chủ đầu tư, EVN thực hiện 23 dự án với tổng công suất 14.809 MW, trong đó 10 dự án đạt tiến độ, 13 dự án chậm hoặc lùi tiến độ.

PVN làm chủ đầu tư 8 dự án với tổng công suất 11.400 MW. Hiện cả 8 dự án đều khó hoàn thành theo tiến độ trong bản quy hoạch.

TKV thực hiệ 4 dự án với tổng công suất 2.950 MW. Cả 4 dự án đều chậm tiến độ từ 2 năm trở lên.

Về các dự án BOT, trong tổng 15 dự án, 3 dự án đạt tiến độ (Vĩnh Tân I sớm trước 6 tháng), 12 dự án chậm tiến độ hoặc chưa xác định được tiến độ do vướng mắc đàm phán.

Về các dự án IPP, có 8 dự án với tổng công suất 7.390 MW, trong đó chỉ 1 dự án đúng tiến độ.

Ngoài ra, còn 5 dự án điện chưa có chủ đầu tư.

Thiếu than, thiếu khí cho nhà máy nhiệt điện

Theo báo cáo, việc cung cấp than cho các nhà máy nhiệt điện chưa đáp ứng yêu cầu cả về khối lượng và chủng loại than. Đã xảy ra tình trạng thiếu than cho các tháng cuối năm 2018 mặc dù trong năm 2018, sản lượng huy động nhiệt điện than đã thấp hơn so với kế hoạch. Các nhà máy nhiệt điện Long Phú 1, Sông Hậu 1 mới xác định được phương án cấp than; Long Phú 2, Sông Hậu 2 chưa rõ phương án vận chuyển than…

Về nguồn nhiên liệu khí, khí Đông Nam Bộ cấp cho cụm nhiệt điện Phú Mỹ sẽ suy giảm từ sau năm 2020, tới năm 2023-2024 dự kiến thiếu hụt khoảng 2-3 tỷ m3/năm, tăng nhanh tới trên 10 tỷ m3 năm 2030. Theo Bộ Công thương, nếu cảng Sơn Mỹ không vận hành năm 2023 thì cụm nhiệt điện Phú Mỹ-Bà Rịa sẽ thiếu khí tương đương khoảng 13 tỷ kWh năm 2023. Khí Tây Nam Bộ cung cấp cho cụm nhiệt điện Cà Mau cũng sẽ thiếu hụt từ năm 2019 với lượng thiếu hụt từ 0,5-1 tỷ kWh.

Bộ Công thương cho biết PVN sẽ mua khí từ Malaysia để giải quyết tình trạng thiếu hụt này.

Ngoài ra, cụm nhiệt điện Ô Môn đang vướng cơ chế về giá khí; giá khí cao gây ảnh hưởng giá điện.

Theo Bộ Công thương, việc sử dụng khí LNG để phát điện sau năm 2023 là không thể tránh khỏi. Sau năm 2022, phía Đông Nam Bộ sẽ thiếu khí và bắt buộc phải dùng khí LNG.

Ngoài ra, việc vận hành, cung ứng điện cũng gây tình trạng thiếu hụt điện, như đường dây 500 kV mạch 3 (để tăng cường khả năng truyền tải Bắc-Nam) bị chậm tiến độ gần 1 năm, hệ thống điện gần như không có dự phòng trong các năm 2021-2025, sẽ gây thiếu điện khi các tổ máy nhiệt điện không vận hành ổn định.

Nghiên cứu phương án mua điện từ Lào và Trung Quốc

Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, tổng công suất điện nhập khẩu là 1.440 MW (năm 2020) tăng lên 1.447,5 MW (năm 2025 ) và 1.554 MW (năm 2030).

Trong dự báo thiếu điện từ năm 2020, báo cáo của Bộ Công thương cho biết sẽ nghiên cứu phương án tăng cường mua điện từ Lào và Trung Quốc để bổ sung công suất cho hệ thống điện; cho phép EVN đàm phán với Công ty Lưới điện Phương Nam – Trung Quốc (CSG) để tăng nhập khẩu điện Trung Quốc qua các đường dây 220V hiện hữu và phối hợp CSG đầu tư hệ thống Back-to-back để tăng mua điện từ năm 2022 mà không phải thực hiện tách lưới.

Bộ Công thương sẽ nghiên cứu mua điện qua cấp điện áp 500 kV để có thể mua từ năm 2025 và chấp thuận chủ trương tăng cường nhập khẩu điện từ Trung Quốc trong thời gian tới.

Bộ Công thương sẽ giao EVN đàm phán, thống nhất với CSG về phương án nhập khẩu và các điều khoản thương mại, giá điện từng giai đoạn.

Ngoài ra, một số giải pháp nhằm đảm bảo cung cấp điện do Bộ Công thương đưa ra như đẩy nhanh việc khai thác thêm các mỏ khí; xem xét bổ sung một số nhà máy điện sử dụng khí LNG thay thế cho một số nhà máy nhiệt điện than; có cơ chế thích hợp như bao tiêu khí, bao tiêu điện để đẩy sớm tiến độ các nhà máy; đôn đốc tiến độ các dự án nhiệt điện khí; kiểm soát nhu cầu phụ tải…

Vĩnh Long

Xem thêm: