Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, trong 5 tháng đầu năm 2019, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đạt 16,74 tỷ USD, tăng gần 70% so với cùng kỳ 2018. Trong đó, vốn FDI từ Trung Quốc đại lục, Hong Kong và Đài Loan đã đầu tư vào Việt Nam là 7,6 tỷ USD.

fdi thang 1 2018
(Ảnh minh họa: Shutterstock)

Trong số này, vốn của riêng Trung Quốc đại lục đạt 2 tỷ USD ở tất cả hợp phần mà riêng phần đăng ký cấp mới là 1,56 tỷ USD, tăng 450% so với con số 280 triệu USD cùng kỳ năm 2018.

Tính đến hết tháng 5, Trung Quốc dẫn đầu về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký mới. Năm 2019 cũng là năm đầu tiên ghi nhận vốn FDI đăng ký cấp mới từ Trung Quốc ở vị trí dẫn đầu.

Hiện tại, Trung Quốc đang đầu tư nhiều nhất vào Tây Ninh với 13 dự án, vốn đăng ký 514 triệu USD. Địa phương đứng thứ 2 là Tiền Giang với gần 360 triệu USD. Tiếp đến là Bắc Giang, TP HCM và Hà Nội.

Theo Bộ KH&ĐT, hầu hết số FDI đến từ Trung Quốc đổ vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo với 138 dự án.

Bên cạnh việc rót vốn thông qua hình thức đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần; vốn Trung Quốc phần nhiều vào Việt Nam thông qua cho vay các dự án hạ tầng, giao thông.

Theo nhận định của nhiều chuyên gia, sở dĩ vốn FDI Trung Quốc vào Việt Nam gia tăng là do Mỹ liên tục tăng thuế suất nhập khẩu với hàng hóa của Trung Quốc, khiến các doanh nghiệp Trung Quốc phải dịch chuyển sản xuất sang các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam để “né” thuế quan của Mỹ.

Những rủi ro tiềm ẩn

Cục Đầu tư nước ngoài nhận định, việc gia tăng đầu tư FDI từ Trung Quốc có thể mang đến một số hệ lụy.

Thứ nhất, đó là nguy cơ dịch chuyển dòng vốn FDI chất lượng thấp, công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường vào Việt Nam.

Đặc biệt, do sự chuyển dịch của FDI từ Trung Quốc sang các nước khác trong đó có Việt Nam, tạo nên áp lực hạ tầng, xã hội ở một số địa phương. Đồng thời có sự gia tăng các nhà đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam dẫn đến việc khó kiểm soát.

Ngoài ra, các nhà đầu tư từ Trung Quốc sẽ gia tăng các hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp (M&A), từ đó dẫn đến nguy cơ nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị thâu tóm, thôn tính thông qua hoạt động mua bán cổ phần.

Bộ KH-ĐT cũng cảnh báo, trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ – Trung gia tăng, nhiều nguy cơ Việt Nam bị lợi dụng xuất xứ đối với hàng hóa xuất khẩu. Từ đó dẫn đến các rủi ro trong hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp Việt, nhất là hàng sang các thị trường lớn như Mỹ.

Nếu nhà đầu tư Trung Quốc vào Việt Nam đa số chỉ sử dụng lao động, chuyên gia Việt Nam thì Việt Nam sẽ có lợi. Nhưng nếu Trung Quốc đưa thiết bị lạc hậu, công nhân, chuyên gia của họ sang Việt Nam thì có nghĩa họ “mượn” Việt Nam để làm hàng trốn thuế với Mỹ.

Biện pháp nào cho Việt Nam?

Theo quan điểm của nhiều chuyên gia, Việt Nam cần xây dựng các hàng rào kỹ thuật cần thiết, nâng cao tiêu chuẩn môi trường, tài nguyên, công nghệ, quy chuẩn, quy cách sản phẩm…. phù hợp với tiêu chuẩn khu vực và thế giới, để loại bỏ những dự án kém chất lượng, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường.

Để kiểm soát tốt hơn tình trạng đầu tư “núp bóng” của tổ chức, cá nhân nước ngoài, Việt Nam cần có các quy định cấm các tổ chức, cá nhân Việt Nam đứng tên hộ trong các giao dịch về đất đai, bất động sản, cũng như kiểm soát chặt hơn hoạt động cho vay giữa các tổ chức, cá nhân Việt Nam với nước ngoài trong các dự án bất động sản.

Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát sau cấp phép các dự án FDI nhằm đảm bảo nhà đầu tư thực hiện đúng các cam kết về yêu cầu, tiến độ triển khai đã được quy định trong giấy chứng nhận đầu tư.

Một biện pháp nữa là cần có các điều kiện chặt chẽ hơn đối với các hoạt động đầu tư theo hướng góp vốn, mua cổ phần; đồng thời bổ sung thêm các quy định về điều kiện an ninh quốc phòng đối với một số địa bàn, lĩnh vực đầu tư FDI có điều kiện.

Hơn hết, đó là Việt Nam cần đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tránh phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc.

Thanh Thuỷ (t/h)

Xem thêm: