Ảnh minh họa. (pexels.com)
Ảnh minh họa. (pexels.com)

Làm sinh viên ở Canada 6 năm, cộng với 2 năm làm việc với những cô cậu mới tốt nghiệp cấp 3 trong vai trò trợ giảng và hơn 1 năm dịch cho các buổi họp phụ huynh từ mẫu giáo đến cấp 2, mình có kha khá trải nghiệm trực tiếp và gián tiếp với nền giáo dục Canada, ở góc độ người học, góc độ người dạy, và góc độ người kết nối.

Dù biết mọi sự so sánh đều là khập khiễng, nhưng mình vẫn sẽ chia sẻ những điều mắt thấy tai nghe mà mình thấy đáng phục. Những điều này dĩ nhiên KHÁC với nền giáo dục ở Việt Nam mà mình được biết từ năm 3 tuổi đến năm 18 tuổi.

1. Khuyến khích học sinh tự làm

Người mẹ trẻ cười ngượng nghịu “tại cháu nó ở nhà với em suốt, giờ mới đi học lần đầu” khi cô giáo của cậu con trai bốn tuổi kể rằng cậu bé thường đứng dậy bỏ đi mỗi khi chơi xong, thay vì tự dọn đồ chơi như các bạn. “Chắc hẳn là vì ở nhà cháu quen có người làm giúp mình“, cô thở dài.

Mình là người phiên dịch trong buổi họp giữa người mẹ Việt và cô giáo Canada. Không có gì nghiêm trọng, cô giáo chỉ muốn thông báo cho người mẹ một số vấn đề nho nhỏ của cậu bé mới đến lớp lần đầu. Nhưng có một đoạn đối đáp mà mình nhớ mãi.

Cô giáo: “Cháu ăn khá chậm, nhiều khi các bạn ăn xong hết rồi cháu vẫn còn ngậm cơm.

Mẹ: “Ở nhà em phải xúc không à. Vậy cô giúp đỡ cháu (cười xu nịnh). Cô xúc cho cháu cô nhé.”

Cô giáo: “Vậy tôi sẽ cho cháu ăn sớm hơn các bạn nửa tiếng để cháu có nhiều thời gian ăn hơn.”

Mình dịch lại đoạn đó, và người mẹ có vẻ không hiểu. Tại sao cách giải quyết cho vấn đề ăn chậm của con chị lại là cho cháu ăn sớm hơn các bạn. Cô giáo cũng không hiểu tại sao giải pháp người mẹ đề xuất lại là cô xúc hộ cơm cho một đứa trẻ đã 4 tuổi. Đó là một khoảng cách văn hóa (cultural gap) trong suy nghĩ về việc tự lập của trẻ, cũng là một ví dụ rất tiêu biểu cho xu hướng khuyến khích học sinh tự làm của trường học ở Canada.

2. Tôn trọng sự riêng tư

Những thông tin cá nhân của học sinh chỉ có học sinh đó và nhà trường được biết. Không có gọi điểm cả lớp sau giờ kiểm tra. Không có bảng xếp thứ hàng tháng photo thành nhiều bản gửi cho phụ huynh cả lớp. Không có bàn tán: “Tháng này mày đứng thứ mấy? Bài kiểm tra thằng kia được mấy điểm?” Tóm lại là không có sự so sánh và “thi đua”, một khái niệm dường như là cốt lõi của nền giáo dục Việt Nam.

Sự riêng tư đó không dừng lại ở điểm số. Một học sinh có thể bị đánh giá là chậm hiểu (learning disability) hơn các bạn trong lớp, nhưng không có ai, thậm chí cả học sinh đó, biết được sự đánh giá này. Có bao nhiêu người trong chúng ta đã từng bị tổn thương khi bị bạn bè trong lớp xì xầm chế giễu vì một thông tin nào đó của chúng ta bị lộ ra và truyền miệng rộng rãi? “Con bé đó có bố đi tù“, hay “Thằng này mẹ nó bán giò chả đấy!“. Hoặc những tiếng cười rúc rích khi bạn phải đọc to trước cả lớp rằng mình là con thứ 5 trong gia đình có 7 người con?

Trong lớp học ở Canada, theo luật, giáo viên bắt buộc phải bảo vệ thông tin cá nhân của học sinh. Ở cấp độ đại học, khi sinh viên đã đủ tuổi trưởng thành, các thông tin y tế của sinh viên còn không được phép tiết lộ cho cha mẹ của sinh viên đó, nếu chưa được phép. Ví dụ một người mẹ gọi đến phòng khám của trường đại học yêu cầu được biết có phải con mình đã đến đây khám thai hay không, thì nếu người con chưa cho phép, phòng y tế hay nhà trường sẽ không được nói gì cả.

3. Cá nhân hóa chương trình học

Trong một buổi họp phụ huynh khác mà mình dịch, nhà trường cố gắng thuyết phục cha mẹ của một cậu bé lớp 1 cho phép em được theo học chương trình điều chỉnh riêng phù hợp với khả năng và nhu cầu của mình, vì các bác sĩ tâm lý của trường đã quan sát, đánh giá và cùng học với em, kết luận rằng em có chứng tự kỉ nhẹ. “Trong lớp của cháu có 20 học sinh, thì có đến 9 học sinh có những chương trình khác nhau, như vậy là gần một nửa rồi.” – cô hiệu phó nói.

Cha mẹ cậu bé rất lo lắng. Nếu bạn bè thằng nhỏ biết được xa lánh nó thì sao? Nếu người ta cho nó vào khu riêng dành cho những đứa trẻ tâm thần thì sao? Những cái nhãn (label) không chỉ là những khái niệm. Chúng sẽ dẫn đến hậu quả trong cuộc sống thật. Là những người nhập cư trong một xã hội xa lạ cả về ngôn ngữ và văn hóa, bố mẹ cậu bé cảm thấy bất lực trước những hậu quả họ không lường được, họ muốn bảo vệ con mình, và vì thế, khăng khăng từ chối việc cho nhà trường thực hiện chương trình học riêng cho cậu.

Điều làm mình xúc động là đây không phải, tuyệt đối không phải, là trường hợp duy nhất mà nhà trường tốn nhiều công sức và thời gian để hỗ trợ một cá nhân riêng lẻ. Thay vì cố ép học sinh vào một cái khuôn, và bất kì em nào chòi ra khỏi cái khuôn đó, thì nhà trường sẽ phủi tay, chúng tôi hết trách nhiệm, em bị đuổi học; ở đây, mình thấy nhà trường cố hết sức để đáp ứng nhu cầu của từng em.

Trong những lần dịch sau đó, mình gặp những người giáo viên tìm cách xin quỹ trường để mua một cây đàn cho một em học sinh có vấn đề về tâm lý, vì thầy giáo của em nhận thấy em bình tĩnh hơn khi được đùa nghịch với những âm thanh. Một lần khác, mình biết cả một nhóm giáo viên dạy nhiều môn khác nhau dành thời gian trong hè để dạy cho một em học sinh lớp 6 bị trầm cảm tự cắt tay, nên đã nghỉ rất nhiều trong năm học. Tất cả những người đó không được trả thêm tiền cho những việc họ làm.

4. Không có sách giáo khoa trên toàn quốc

Canada không có một bộ giáo dục hay một hệ thống sách giáo khoa trên toàn quốc. Mỗi tỉnh có một cơ quan phụ trách giáo dục riêng. Mỗi quận lại có một hội đồng giáo dục quản lý các trường học trong địa phận của mình. Mỗi trường có các hướng dẫn chung về những nội dung cần dạy. Nhưng trách nhiệm cuối cùng là ở người giáo viên trực tiếp đứng lớp. Họ tự lên giáo án và chọn sách để dạy học sinh.

Nếu như vậy thì làm sao bảo đảm được rằng học sinh ở các địa điểm khác nhau có trình độ tương đương nhau? Hay đơn giản là học sinh ở các nơi đều có một trình độ học vấn tối thiểu?

Trên trang web của chính phủ Canada, mục “Giáo dục ở Canada”, câu đầu tiên là “Cha mẹ chịu trách nhiệm chính với việc giáo dục con em mình“. Có nghĩa là, nhà trường và nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ cha mẹ. Không phải cứ gửi con đến trường, giao cho cô giáo là xong. Cũng không thể chặc lưỡi “Để nó ra đời cho xã hội dạy”.

Cha mẹ ở Canada tham gia rất sâu vào việc học hành của con cái, và họ được khuyến khích làm vậy. Giáo dục ở đây được coi như một dịch vụ công mà nhà nước cung cấp, nhưng cha mẹ và học sinh có quyền phản hồi, đóng góp, thay đổi chương trình học và cả người dạy. Học sinh cuối học kì được phát phiếu đánh giá thầy cô giáo. Bản thân mình khi đi làm trợ giảng cũng hồi hộp đọc phiếu đánh giá giữa kì và cuối kì của sinh viên. Cô có đến lớp muộn không? Cô trả lời thắc mắc có thấu đáo không? Cô chuẩn bị bài có kĩ càng không? Cô giảng có dễ hiểu không? Mình biết ít nhất một ông thầy mình từng học bị mất việc vì quá nhiều sinh viên nhận xét tiêu cực.

Năm 2015, tỉnh Ontario đưa một số nội dung mới vào việc giáo dục giới tính cho học sinh. Rất nhiều phụ huynh phản đối, đặc biệt là những gia đình có lối sống truyền thống và khắt khe. Họ biểu tình, họ lên báo và đài phát thanh để bày tỏ ý kiến. Họ viết thư cho các hội đồng giáo dục. Họ cho con nghỉ ở nhà, không đến lớp.

Mình cũng đã dịch rất nhiều thư mời của nhà trường đến các phụ huynh người Việt không đọc được tiếng Anh, mời họ đến đóng góp ý kiến, khi giáo viên đình công đòi tăng lương chẳng hạn. Các trường thường được đánh giá từ phía nhà nước và phụ huynh, và đấy chính là cơ chế để họ nỗ lực dạy tốt. Sự cạnh tranh luôn khiến người ta vươn lên để mang đến dịch vụ tốt hơn. Khi giáo dục không còn là một đặc quyền của một nhóm nhỏ, mà là quyền cơ bản cho tất cả dân chúng, thì coi việc dạy là một năng lực thần thánh mà những người không dạy thì không được quyền vặn vẹo, hay phê bình, có vẻ không còn là một cách tiếp cận hiệu quả.

Việc tôn trọng này thể hiện ở việc bảo vệ thông tin cá nhân của học sinh, chắc chắn rồi. Nhưng mình còn thấy điều này ở những hành động nhỏ nhặt hơn, ví dụ như cô giáo ngồi xổm xuống để nói chuyện với học sinh thay vì đứng và nói từ trên cao xuống. Thầy giáo chìa bàn tay to đùng ra để bắt tay làm quen khi những cô cậu lũn cũn lần đầu vào lớp 1 (xin lưu ý, bắt tay chứ không phải xoa đầu). Và quan trọng nhất là lời xin lỗi. “Xin lỗi em cô không biết câu trả lời cho câu hỏi của em, nhưng cô sẽ tìm hiểu và trả lời em vào buổi sau nhé“.

Khi còn là trợ giảng, mình sợ nhất là những lúc sinh viên tức giận đến kiện điểm. Một số em buồn rầu, nhưng một số em rất hung hăng. Sự tôn trọng không phải chỉ là vấn đề giữa mình và em đó, mà là nguyên tắc nằm trong hệ thống. Nghĩa là mình bắt buộc phải lắng nghe em sinh viên bất mãn với điểm số mình cho, những lý do mình đã sai khi cho điểm số này, những chỗ mình bỏ sót. Nếu như mình đã giải thích mà hai bên vẫn không thể đồng ý với nhau, thì có những bước rất rõ ràng và chi tiết mình và em sinh viên đó phải làm. Phải viết ra những điểm bất đồng. Phải nộp văn bản đó lên cho giáo sư phụ trách lớp. Phải điền vào một số đơn từ. Tất cả là bởi vì mình bắt buộc phải tôn trọng, và không thể phủ toẹt em đó rằng “trò làm sao mà đòi khôn hơn thầy“.

6. Hỗ trợ kĩ năng miễn phí

Mình thường hơi thấy bực khi người ta cứ kết tội “học sinh sinh viên Việt Nam thiếu kỹ năng, không biết viết đơn xin việc, không biết trả lời phỏng vấn“. Kết tội như vậy, nhưng không ai hỏi lại “Tại sao lại ra nông nỗi đấy?

Trong các lớp học ở chương trình thạc sĩ của mình, thường mỗi sinh viên sẽ phải chịu trách nhiệm một tuần. Giáo sư chỉ ngồi dưới nghe, thỉnh thoảng bổ sung, đặt câu hỏi, gợi mở một ý quan trọng. Và có lẽ nhiều người thần tượng nền giáo dục phương Tây sẽ ngạc nhiên, nhưng trong số các bạn học cùng mình, có vô số người cúi gằm mặt xuống sách, hoặc quay lưng vào người nghe để nhìn slide đọc chữ, hoặc để chữ dày đặc không đọc nổi. Kể cả các giáo sư cũng có vô số người mắc các lỗi cơ bản trong thuyết trình như vậy.

Không phải người Tây nào sinh ra đã biết thuyết trình dõng dạc, cuốn hút. Đấy là một kĩ năng cần phải được dạy và rèn luyện. Cả hai điều đó, các trường học ở Canada đều rất sẵn.

Trường đại học của mình có đến hàng chục các loại trung tâm khác nhau, hỗ trợ các kĩ năng như viết, thuyết trình, dạy học, xin việc. Kỹ năng đọc sách, kỹ năng ghi chép, kỹ năng làm bài kiểm tra cũng được dạy. Kỹ năng nhận biết và điều chỉnh cảm xúc bản thân. Kỹ năng làm cha mẹ. Kỹ năng giao tiếp. Riêng các kỹ năng liên quan đến việc làm thì có workshop quanh năm, các chương trình hỗ trợ kết nối với nhà tuyển dụng dày đặc. Các buổi gặp gỡ với cựu sinh viên giờ đã đi làm cũng được tổ chức thường xuyên. Hội chợ việc làm, trường mời cả trăm nhà tuyển dụng đến để giới thiệu về công ty của họ cho sinh viên. Tất cả đều miễn phí.

Ở cấp 3, học sinh được giới thiệu đến các cơ quan công sở để quan sát (job shadowing). Cơ hội tình nguyện thì vô vàn, mỗi khu dân cư đều có những cơ sở cần tình nguyện viên, như nhà dưỡng lão, bệnh viện, trung tâm nuôi động vật, tổ chức dành cho trẻ em, nhà thờ. Học sinh cấp 3 còn phải hoàn thành tối thiểu 40 giờ làm việc cộng đồng, đấy là một yêu cầu bắt buộc để tốt nghiệp.

Đổ lỗi cho cá nhân thì dễ. Sinh viên Việt Nam ta thụ động, chậm chạp, thiếu sáng tạo…ai cũng nói được. Vấn đề là một hệ thống như thế nào đã sản sinh ra những sinh viên như thế?

7. Không có học phí

Điều cuối cùng và có vẻ hiển nhiên mà mình thấy đáng phục, là giáo dục ở Canada miễn phí từ năm 4 tuổi cho đến hết lớp 12. Đại học khá rẻ (nếu so với một gia đình ở nông thôn ta cho con đi học đại học ở Hà Nội). Nhà nước cho vay tiền để học đại học, khi nào ra trường đi làm có lương mới phải trả nợ dần. Nếu lâu quá vẫn nghèo không trả được thì có thể nhà nước xem xét xóa nợ luôn. Nếu bố mẹ bỏ tiền vào một quỹ tiết kiệm để dành cho con đi học đại học từ lúc còn nhỏ, đến năm 18 tuổi, nhà nước sẽ cho không số tiền tương ứng với 20% số tiền mà bố mẹ đã tiết kiệm được.

Tạm thời là như thế, mình sẽ viết tiếp về các vấn đề của nền giáo dục Canada, tệ ngang hoặc tệ hơn cả nền giáo dục Việt Nam nữa.

Facebook Vân Nguyễn

Xem thêm: