Giáo dục vị chính trị hay giáo dục vị nhân bản?

Mọi bàn cãi về cải cách giáo dục nước nhà đều ít nhiều vô nghĩa nếu giáo dục không được đặt trên nền tảng căn bản: sự tự do. Tư duy giáo dục phải được đặt trên yếu tố cốt lõi là xây dựng nguồn nhân lực vì tương lai quốc gia và chính sách giáo dục phải được thực hiện trên nguyên tắc đó. Giáo dục không thể bị biến thành công cụ phục vụ sự tồn tại của đảng cầm quyền. Điều đó chỉ có thể thực hiện khi mà nhà nước không thò tay vào sự vận hành của bộ máy giáo dục.

giao duc viet nam
Chỉ với một chữ “trò” dùng để xưng hô giữa giáo viên với học sinh (hay ngược lại) và giữa học sinh với học sinh, đã cho thấy một sự nghiêm cẩn của một nền giáo dục. Ảnh: Học sinh miền Nam – Henk Hilterman chụp năm 1967.

Thử lấy mô hình Mỹ tham khảo. Chính phủ liên bang chỉ phác họa chính sách tổng quát và phần hành động và kế hoạch chi tiết luôn thuộc thẩm quyền Bộ Giáo dục (với không đến 4.000 nhân viên-viên chức, là cơ quan ít nhân sự nhất trong 15 bộ của Mỹ, dù ngân sách đứng hàng thứ ba với gần 70 tỷ USD, chỉ sau Bộ Quốc phòng và Bộ Y tế). Phần mình, các tiểu bang lại có đường hướng riêng mà Bộ Giáo dục gần như không can thiệp. Chức trách Bộ Giáo dục Hoa Kỳ là thực hiện sứ mạng mà họ cho rằng quan trọng nhất: làm thế nào để học sinh học tốt để có thể sẵn sàng giành chiến thắng trong sự cạnh tranh phát triển toàn cầu. Để thực hiện điều đó, tinh thần của chính sách giáo dục Mỹ, trong bất kỳ giai đoạn nào, cũng đặt yếu tố “tự do” làm trọng tâm.

Có lẽ không quốc gia nào có chính sách giáo dục, xét về tổng thể, tự do như Mỹ. Các tiểu bang có toàn quyền xây dựng hệ thống và đường lối giáo dục riêng. Các học khu (school district) trong từng bang lại có cách thức dạy và học riêng. Mỗi đại học hay trường phổ thông trong từng học khu lại có mô hình riêng. Thậm chí giáo viên của từng khối lớp trong cùng một trường cũng có quyền sử dụng cách thức giảng dạy riêng. Giáo viên lớp 5 này có thể dạy khác giáo viên lớp 5 khác trong một trường. Ban giám hiệu không được can thiệp vì chỉ giáo viên đứng lớp trực tiếp mới biết năng lực của từng học trò và biết học trò mình cần gì…

Chính sách tự do trong giáo dục Mỹ dựa vào triết lý căn bản: con người là những thực thể khác nhau, có khả năng khác nhau và tố chất khác nhau. Không có con đường nào là duy nhất để mang lại kiến thức và giáo dục con người. Không có phương pháp và mô hình nào duy nhất để xây dựng và phát triển con người. Thật ra cho đến thập niên 1960 chính phủ liên bang mới bắt đầu “can thiệp” bằng cách đưa ra chính sách chung cho giáo dục nhưng từ đó đến nay chính phủ vẫn không bao giờ kiểm soát tuyệt đối hệ thống vận hành của bộ máy giáo dục. Vai trò đáng chú ý nhất của chính phủ liên bang là tạo ra sự công bằng và bình đẳng trong hệ thống giáo dục; bảo vệ quyền hiến định của học sinh (safeguarding students’ constitutional rights; chẳng hạn cấm phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo…); và bảo vệ quyền hiến định của giáo viên (giáo chức được bảo vệ khỏi sự ngược đãi nếu có…).

Với giáo dục Mỹ, không ai có quyền thao túng, áp đặt và “chỉ đạo” chính sách giáo dục. Kết quả của sự tự do trong giáo dục Mỹ là họ tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, giữa các bang, giữa các trường, giữa các giáo viên, giữa những nhà giáo dục học, giữa những người viết sách giáo khoa mà giáo viên có toàn quyền chọn để dạy, thậm chí giữa những nhà lập pháp các tiểu bang. Sự phát triển và thành công của giáo dục Mỹ đặt trên yếu tố thực chứng. Nó được phép thể hiện sự tự do nhiều nhất có thể, miễn nó mang lại kết quả tối ưu trong thực tế. Các mô hình giáo dục được phép thể hiện tự do, miễn cho thấy và chứng minh được mục đích cuối cùng là xây dựng thành công con người.

Miền Nam trước 1975 từng có một nền giáo dục tự do như vậy. Giáo dục miền Nam không chỉ thụ hưởng tự do. Nó còn là nền giáo dục được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng. Trường ở Sài Gòn cũng không khác trường ở Vĩnh Long. Điều này tương phản với thực trạng gây ra bất công bởi cái gọi là “trường điểm” của hệ thống giáo dục ngày nay. Miền Nam trước 1975 không hề tồn tại hiện tượng gọi là “chạy trường” hoặc “học thêm”. Học sinh tiểu học chỉ học nửa buổi (nửa buổi còn lại tha hồ tắm sông hay nhảy dây!). Chỉ đến sau “giải phóng” thì dân miền Nam mới nghe đến những cụm từ như “bồi dưỡng giáo dục”, mở đầu cho vô số chuyện kỳ dị và khôi hài khác liên quan “sự nghiệp giáo dục XHCN” kéo dài bất tận đến giờ.

Chừng nào Việt Nam có những ngôi trường được dùng sách giáo khoa riêng, phương pháp giảng dạy riêng và trường học có những lớp mà học sinh thích đứng hay ngồi tùy ý? Điều quan trọng bây giờ đối với “hệ sinh thái giáo dục Việt Nam”, như cách dùng từ của Bộ trưởng Nhạ, là sự cần thiết trả lại quyền tự do cho giáo dục. Chỉ bằng tự do cạnh tranh mới có thể mang lại sự đào thải những mô hình giáo dục kém hoàn thiện. Chỉ bằng cạnh tranh trên tinh thần tự do thì mới dẹp được nạn tham nhũng, từ chạy bằng cấp đến tình trạng độc quyền sách giáo khoa. Chỉ bằng tự do cạnh tranh, phương pháp đánh vần nào tốt hơn sẽ được xã hội đón nhận, không cần tốn thời gian tranh cãi. 

Trong bài “Giáo dục, xin cho tôi nói thẳng” viết năm 2009, GS Hoàng Tụy đã chỉ ra ba vấn đề nghiêm trọng khiến giáo dục Việt Nam suy đồi: 1/ Giáo dục sa sút không phải vì thiếu tiền mà vì quản lý kém; 2/ Cần cải cách có hệ thống chứ không phải đổi mới vụn vặt; 3/ Giáo dục không phải là phòng thí nghiệm, càng không thể là nơi để học việc lãnh đạo. Trong bài báo, GS Hoàng Tụy viết: “Căn nhà giáo dục đã cũ nát thảm hại nhưng cứ loay hoay nay cơi nới chỗ này, mai sửa chữa chỗ kia, rốt cuộc thành ra căn nhà dị dạng chẳng ai muốn ở…”.

Gần 10 năm sau bài viết này, bức tranh giáo dục nước nhà ngày càng bệ rạc và dị dạng gấp nhiều lần. Có lẽ cần bổ sung và “nói thẳng” hơn cả “xin cho tôi nói thẳng”: vấn đề đặc biệt nghiêm trọng và là rào cản lớn nhất của phát triển giáo dục Việt Nam là đảng cầm quyền không ngừng tay bóp nghẹt tự do trong chính sách lẫn điều hành giáo dục. Tạp chí Tia Sáng đã bị đóng cửa vì bài viết nói trên của ông Hoàng Tụy. “Nói thẳng” đã không bao giờ có thể giúp nới ra được bàn tay “siết cổ” giáo dục. “Tự do nói thẳng” đã không có “giá trị” bằng những “nghị quyết đổi mới của Đảng về đổi mới giáo dục”. “Chức năng” giáo dục đã không được phép tách rời khỏi “nhiệm vụ chính trị” mà các nghị quyết Đảng đặt ra. Ở một góc độ nào đó có thể nói, Bộ Giáo dục không chỉ là công cụ. Nó còn là “con tin” của đảng cầm quyền. Muốn bàn về sự cởi trói những khó khăn của giáo dục, trước hết phải nhìn thấy được “mức độ cởi trói” của Đảng đối với giáo dục, để nó có thể tự do tìm kiếm con đường nào là tốt nhất nhằm thỏa mãn được các mục tiêu cốt lõi của bản chất giáo dục: “Giáo dục cho cái gì” và “Giáo dục cho ai”.

Theo Facebook Mạnh Kim

(*) Tựa bài do TTVN đặt.

Xem thêm: